Xương sống của phần 1 chính là sự nặng lòng của tác giả với quê hương mình. Đấy là chuyến phà ngày cuối cùng đưa người qua sông Hàn được tác giả suy ngẫm trong ngổn ngang nỗi niềm thế sự. Đấy là người đàn bà buôn gánh lặng lẽ trong vai diễn của mình thời chiến tranh ác liệt giữa thành phố này...
Đấy là “một cảm giác rờn rợn từ ngọn gió ngoài đồng thổi về mang yếu tố tâm linh huyền bí. Biết đâu ở một
thế giới nào đó, mẹ tôi phát hiện ra đứa con trai của mình đã hơn sáu mươi tuổi rồi mới hiểu hết ngọn nguồn, quê mẹ. Và, tôi đang thả tâm hồn tôi, đang mơ được ngồi sau lưng ông ngoại trên yên ngựa để cùng ông lang bạt về nguồn, nơi có con sông Vu Gia một thời tuổi thơ tôi tắm mát” (Quê mẹ).
Đấy là ký ức và hoài niệm tuổi thơ mà họ đã từng sống, từng mang theo suốt cuộc đời mình. Nỗi nhớ làng luôn là tâm trạng khắc khoải, bồn chồn đến day dứt: “Cái làng ấy ra đi cùng tôi/Mà tôi nào hay biết/Chỉ mỗi điều giữa câu thơ tôi viết/Con sông quê, bóng núi cứ chập chờn...”... Và Lòng chưa cạn đêm sâu còn chan chứa mến thương với hai bài viết về hai người bạn thơ vừa qua đời là Ngô Minh và Nguyễn Trọng Tạo.
Phần 2 là những bài viết về thơ Nguyễn Ngọc Hạnh ở các góc nhìn khác nhau, những cung bậc cảm xúc khác nhau. Với số lượng bài viết nhiều và kéo dài trong suốt nhiều năm như vậy, chứng tỏ thơ Nguyễn Ngọc Hạnh có điều gì đó tiềm ẩn rất riêng khiến nhiều người quan tâm đến anh. Số người quan tâm tới thơ Hạnh không chỉ những nhà thơ, nhà văn lớn tuổi như Thanh Thảo, Du Tử Lê, Nguyễn Trọng Tạo, Ngô Minh, Thanh Quế, Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Thế Khoa, Thái Thăng Long, Phạm Phú Phong, Huỳnh Văn Hoa, Bùi Văn Tiếng... mà còn có cả những nhà thơ, những nhà phê bình trẻ như Trần Tuấn, Hoàng Thụy Anh...
Người viết về mình cũng hết lòng. Mình viết về người cũng hết lòng. Bởi vậy Lòng chưa cạn đêm sâu đã để lại một phức cảm của hai chiều cảm xúc khiến người đọc cảm thấy quý mến, gần gũi Nguyễn Ngọc Hạnh hơn khi cầm trên tay cuốn sách này. Cũng cần nói thêm, để có được giao cảm đó trong bối cảnh thơ ca hiện nay thật không dễ dàng. Điều này càng thấy rõ hơn, tình yêu văn chương của Hạnh lúc nào cũng tràn trề, lúc nào cũng đắm lòng không do dự. Đó là năng lượng không bao giờ vơi cạn mà người dấn thân vào nghiệp này luôn luôn phải nuôi dưỡng, gìn giữ nó như chính quả tim nhỏ bé của mình.
(Theo Nguyễn Thụy Kha)