PHẠM PHÚ THỨ TOÀN TẬP

Khi cầm bộ sách này trong tay thì hình ảnh nhà nhớ nước Phạm Phú Thứ không còn khuất lấp trong Lớp sương mù thời gian mà hiện ra rờ rỡ, rõ ràng trước mắt ta với một tâm thế mới .
Phạm Phú Thứ (1821-1882), hiệu Trúc Đường, biệt hiệu Giá Viên, người xã Đông Bàn, huyện Diên Phước, nay là xã Điện Trung, Điện Bàn, Quảng Nam – một xứ sở linh nhân kiệt – là người kiệt xuất tính thông minh, nổi tiếng học giỏi, đỗ đầu các khoa, làm quan đại thần của triều đình nhà Nguyễn dưới hai đời vua Trị Thiệu, Tự Đức.
Trước đây qua “Tây hành nhật ký” (Nhật ký đi Tây) và một số bài thơ, bản khí lạnh lùng mà các nhà nghiên cứu tiếp cận được, Phạm Phú Thứ mới biết đến và đánh giá là vị quan thanh liêm, chính trực, yêu nước, có tư tưởng canh tân, đã nhiều lần dâng hiến, sớm bày ra hiện tình đất nước, có thể ngăn vua bớt thú vui để chăm sóc triều chính … Ít ai biết rằng ngoài Giá Viên biệt lục (đã được NXB Đà Nẵng xuất bản năm 1999 dưới tên gọi Nhật ký đi Tây), cụ còn là tác giả của bộ sách cuốn Giá Viên toàn tập (gồm 27 quyển thơ – văn). Như một duyên may, năm nay, 15 năm sau nhật ký đi Tây, NXB Đà Nẵng lại tiếp tục cho ra mắt PHẠM PHÚ THỨ TOÀN TẬP (ngày 2.620 trang) trong đó công bố toàn bộ bản dịch Việt ngữ hải bộ giá Viên toàn tập và Giá viên biệt lục của cụ.

BẺ ĐÔI CỦ KHOAI MÀ BÀN VIỆC LỚN

… Dù ở bất thể loại gì, trong văn của Trương Điện Thắng vẫn bàng bạc chất quê nhà của một không gian đậm đặc xứ Quảng. Đó là những câu chuyện lý thú về nghệ thuật “cãi”… có sách của nhiều nhân vật xuất chúng của mảnh đất ngũ phụng tề phi: Phan Khôi cãi về học thuật với Trần Trọng Kim, dám tấn công vào Phạm Quỳnh hay phản bác với Tản Đà, Nguyễn Tiến Lãng, Nguyễn Trọng Thuật, Vân Bằng, rồi tạo bút chiến với Hải T…

CON ĐƯỜNG PHÍA TRƯỚC **

… Tập sách con đường phía trước ** là một tấm gương phản ánh tâm hồn, trí tuệ và tính cách của bạn Vũ Ngọc Hoàng, giản dị, khiêm tốn, chân thành, hòa đồng và chia sẻ …

NON NƯỚC – NGŨ HÀNH SƠN QUA THƠ VĂN

Sách: “NON NƯỚC NGŨ HÀNH QUA THƠ VĂN”
木 蘭 一 棹 片 帆 開
直 上 修 彌 寫 曠 懷
草 樹 幾 經 春 代 謝
峯 巒 仍 是 古 挨 排
門 當 火 樹 乘 鸞 幸
海 繞 金 園 送 水 回
謂 報 釋 迦 如 戀 土
隨 吾 西 去 又 重 來
Mộc lan nhất trạo phiến phàm khai,
Trực thướng Tu Di tả khoáng hoài
Thảo thọ kỷ kinh xuân đợi tạ
Phong loan nhưng thị cổ ai bài
Môn đường hỏa thọ thừa loan hạnh
Vị báo Thích Ca như luyến thổ
Tùy ngô tây khứ hựu trùng lai

Đất Quảng trong lịch sử – Tư liệu và nghiên cứu

Tập sách Đất Quảng trong lịch sử: Tư liệu và Nghiên cứu, được biết là công trình đầu tay của Hy Giang Lê Thị Mai, tôi muốn nói về sự bắt đầu. Cổ nhân dạy: “Đường dài vạn dặm bắt đầu từ những bước đi đầu tiên” hay để có một cuốn tiểu thuyết dài ngàn trang phải bắt đầu từ đôi dòng khai bút. Vậy nên sự bắt đầu rất quan trọng. Với một người học sử như Hy Giang Lê Thị Mai, có lẽ viết cuốn sách sử về làng mình, về quê hương xứ sở của mình để bắt đầu là một cơ duyên hiếm có, đã thỏa niềm ao ước lớn trong đời.
Vùng đất Quảng Nam, xứ Quảng Nam, đất Quảng đều hàm ý về vùng đất rộng lớn ở phía Nam, có bề dày lịch sử và trầm tích văn hóa đặc sắc. Nó cũng được biết đến là “đất khoa bảng”, “đất địa linh nhân kiệt”, nơi đã sản sinh
ra biết bao nhiêu bậc anh tài, hào kiệt cho đất nước. Những người con xứ Quảng luôn tự hào về nơi chôn nhau cắt rốn của mình và đó chính là động lực giúp họ vượt lên mọi khó khăn, trở ngại, để nghiên cứu sâu thêm về lịch sử
cũng như truyền thống tốt đẹp của quê hương mình. Cuốn sách “Đất Quảng trong lịch sử: Tư liệu và Nghiên cứu” của Hy Giang Lê Thị Mai là một công trình như vậy. Sách mang tới cho người đọc một cách tiếp cận mới với những
tư liệu mới và những lý giải có tính thuyết phục cao.
Thông qua việc khai thác nguồn tài liệu thành văn (mà trong đó tư liệu Hán – Nôm chiếm ưu thế), tác giả đã tập trung khảo cứu, phân tích và lý giải một số vấn đề lịch sử, văn hoá đất Quảng từ thời Champa đến thời chúa Nguyễn và từ đầu triều Nguyễn đến thời Pháp thuộc với kết cấu làm 2 phần, mỗi phần 8 bài viết.

Trong Phần 1. Đất Quảng từ dấu xưa Champa đến thời chúa Nguyễn, tác giả đã thể hiện sự kỳ vọng, mong muốn
tìm hiểu một cách có hệ thống về những vấn đề còn tồn tại tranh cãi hay các phát hiện tư liệu mới liên quan đến vùng đất Duy Xuyên – quê hương thân yêu của tác giả.
Mở đầu cuốn sách, người đọc được trở về thời quá khứ vàng son của vương quốc Champa cổ thông qua việc
nghiên cứu vị trí toạ lạc, cảnh quan tự nhiên, quy mô và kỹ thuật xây dựng thành Điển Xung của vương quốc Lâm Ấp trong tác phẩm Thuỷ kinh chú. Rồi từ dòng “Đại Hoài Thuỷ” của thành cổ Sinhapura xưa, dòng sông mẹ xứ
Quảng đã trở thành nỗi niềm trăn trở của tác giả: “Phải chăng Hoài Thuỷ – Hy Giang – Duy Xuyên là tên gọi cổ xưa của dòng sông mẹ ấy?”. Thông qua câu chuyện về tên gọi của một dòng sông, tác giả đã dẫn dắt người đọc trở về một giai đoạn lịch sử dài và đầy biến động của chính vùng đất quê hương mình. Để từ đó, tác giả cho rằng: “Mỗi dòng sông có đời sống riêng của nó. Câu chuyện dòng sông Mẹ xứ Quảng là câu chuyện dài như chính lịch sử của vùng đất này”.
Và có lẽ chính hai nghiên cứu trên đã đặt nền tảng để tác giả đi sâu khai thác nguồn tư liệu Hán – Nôm, tập trung
tìm hiểu chuyên sâu về địa danh học và các vấn đề làng xã xưa xứ Quảng với các bài viết: Địa danh qua tư liệu văn bia vùng Bắc Quảng Nam thời chúa Nguyễn, Văn bia trùng tu đình châu La Tháp (Duy Châu, Duy Xuyên, Quảng Nam), và Đơn vị hành chính Thuộc qua các thuộc ở Quảng Nam từ thời chúa Nguyễn đến đầu triều Nguyễn Nối tiếp những nghiên cứu về xứ Quảng thời chúa Nguyễn, tác giả đã theo dấu hành trình của hoà thượng Thích Đại Sán (cuối thế kỷ 17) qua tác phẩm Hải ngoại kỷ sự và rút ra các đặc trưng về phong thổ xứ Quảng xưa; hay dịch thuật và phân tích nội dung tấm bia Chân Quý tì khưu ký lược bi (Mai Châu, Quảng Đông, Trung Quốc) để từ đó luận giải nhiều vấn đề lý thú về sự giao lưu văn hóa – tôn giáo, kinh tế – thương mại giữa Trung Hoa (nhất là miền Quảng Đông, Phúc Kiến) với Đàng Trong Đại Việt giai đoạn này.

Trong Phần 2. Đất Quảng từ đầu triều Nguyễn đến thời Pháp thuộc, tác giả tiếp tục phát huy sở trường của mình
trong việc sử dụng nguồn tư liệu Hán – Nôm theo phương pháp so sánh, đối chứng để đi sâu làm rõ các vấn đề về địa danh học và làng xã xứ Quảng xưa. Nghiên cứu địa danh, làng xã ở thời kì xa xưa của một vùng đất cần rất nhiều nguồn tư liệu, trong đó tư liệu văn bia giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Tác giả đã khai thác và khảo sát một cách công phu về hệ thống địa danh vùng Bắc Quảng Nam thời chúa Nguyễn (bao gồm thành phố Đà Nẵng và các huyện phía Bắc là Điện Bàn, Đại Lộc, Duy Xuyên cùng thành phố Hội An thuộc tỉnh Quảng Nam ngày nay) trên văn bia và làm rõ ý nghĩa của việc nghiên cứu hệ thống địa danh đó. Đặc biệt, tác giả đã giới thiệu, tiến hành khảo sát sự thay đổi địa danh làng xã ở dinh Quảng Nam trong Bản Tấu của Bộ Hộ năm Minh Mạng thứ 5 (1824) là một tư liệu hiếm gặp; hay khai thác Châu bản triều Nguyễn trong nghiên cứu một số vấn đề như đào sông Vĩnh Điện, lệnh kiêng húy chữ Hoa … Từ việc khảo sát trường hợp làng Du Xuyên ở địa bàn trung tâm thành phố Đà Nẵng; tản mạn câu chuyện về Khu phố Tây của thành phố Tourane (Đà Nẵng) đến công bố tư liệu quý về làng xã của thành phố năm 1923, tác giả bước đầu mở rộng phạm vi không gian nghiên cứu đến các làng xã xưa ở địa bàn thành phố Đà Nẵng và mở rộng phạm vi nội dung tìm hiểu về nhân vật lịch sử như ngài Nguyễn Duy Kế (Duy Xuyên, Quảng Nam) với làng Bàu Ấu (Phương Trì, Thuận Trì – quê hương của tác giả) và ngài Trúc Đường Phạm Phú Thứ với Hội Nguyên kiu (Đông Bàn, Điện Trung, Điện Bàn, Quảng Nam), …


Như vậy, có thể nhận thấy, bằng việc khảo cứu tư liệu một cách kỹ lưỡng, tác giả đã thành công trong việc phục
dựng một cách tương đối chân xác diện mạo của một số vấn đề địa danh học và làng xã xứ Quảng trải dài từ thời
Champa đến thời thuộc Pháp. Đọc các bài viết trong tập sách này, chúng tôi đều cảm nhận được phương pháp
làm việc khoa học, cẩn trọng và sự đầu tư thời gian của bản thân tác giả trong việc tìm tòi, dịch thuật và hệ thống
hoá nguồn tài liệu thành văn vốn tản mạn ở nhiều nơi.
Với lập luận một cách gãy gọn, logic, tôn trọng sự thật lịch sử, các bài viết trong tập sách này đã đưa ra nhiều
luận điểm mới, có tính phát hiện vấn đề và để lại nhiều suy nghĩ cho người đọc. Những bài viết được đưa vào sách này trải dài theo đoạn đời tuổi đôi ba mươi của tác giả, độ tuổi chưa thấm sự đời nhưng đầy nhiệt huyết. Có lẽ vì vậy, bên cạnh những khảo cứu nghiêm túc, đủ sức thuyết phục thì cũng có những trang viết còn “non tay” mà một người nghiên cứu trẻ, mới bước vào địa hạt Hán – Nôm không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, viết về vùng đất nơi mình chôn nhau cắt rốn với tất cả tình cảm nhiệt thành và những tư liệu mới mẻ, nội dung cuốn sách là những ý tưởng mới, đã gợi mở nhiều vấn đề thú vị cho những nghiên cứu tiếp theo.

Tác phẩm Phan Khôi – Sức sống diệu kỳ

“Phan Khôi hiện diện trước xã hội, trước cuộc đời này chỉ với tư cách nhà báo; người ta biết ông chủ yếu qua những gì ông viết ra đăng lên báo chí; nhưng, qua hoạt động báo chí, Phan Khôi chứng tỏ mình còn là một học giả, một nhà tư tưởng, một nhà văn. Phan Khôi là nhà tư tưởng đã đặt ra hàng loạt vấn đề: phê phán Khổng giáo, tiếp nhận tư tưởng Âu Tây, nữ quyền. Ông cũng là một nhà Hán học và Trung Quốc học am hiểu những vấn đề của xã hội Trung Quốc đương thời, ông là một dịch giả đã dịch Kinh Thánh của đạo Tin Lành ra tiếng Việt, một nhà Việt ngữ học cả ở phần lý thuyết lẫn thực hành, một nhà văn xuôi với thể hài đàm và một nhà phê bình văn học.

Nghệ thuật Champa – Tượng các thần Hindu giáo

… Thần thoại Ấn Độ là cả một tổng thể những hệ thống thần cổ học ở đồng bằng sông Ấn về nền văn minh đô thị cổ thoại từng tồn tại ở Ấn Độ. Với những phát hiện khảo Harappa, chúng ta biết đến cả một nền thần thoại tiền Ấn Độ. Bên cạnh những hệ thống thần thoại này, tạo thành thần thoại Ấn Độ còn có các hệ thống thần thoại lớn khác: thần thoại Veda, thần thoại Ấn Độ giáo và thần thoại Phật giáo. Thần thoại Veda, về cơ bản đã được hình thành vào cuối thiên niên kỷ 2, đầu thiên niên kỷ 1 trước Công nguyên ở vùng Tây Bắc Ấn Độ và trong những bộ lạc của người Arya. Đặc trưng của thần thoại Veda là tính chất đa thần. Thần thoại Ấn Độ giáo được hình thành muộn hơn, khi mà người Arya đã lan tỏa xuống phía Nam và sang phía Đông Ấn Độ và đã có ảnh hưởng lớn đến nền văn hóa của các cư dân bản địa nơi đây. Mặc dầu là sự tiếp nối của thần thoại Veda, nhưng thần thoại Ấn Độ giáo đã phát triển mạnh hơn nhiều và nghiêng hẳn sang những khái niệm mang tính nhất thần. Nên thần thoại lớn thứ ba và rất khác hai nền thần thoại trên là thần thoại Phật giáo (xuất hiện ở Ấn Độ vào thế kỷ 6 trước Công nguyên ở các tỉnh Đông Bắc). Hệ thống thần thoại Phật giáo đã tiếp nhận không ít những yếu tố và những nhân vật của các nền thần thoại trước đó. Thế nhưng, tất cả đều đã được Phật giáo hóa để trở thành những nhân vật của thần thoại Phật giáo …

Sử Việt – Nhìn từ tài liệu nguồn

… Khi đề cập đến các bộ chính sử của Việt Nam, cũng như phương pháp nghiên cứu cổ sử, giáo sư Chen cho rằng: “Khi sử dụng Đại Nam thực lục làm sử liệu tiến hành khảo chứng, chúng ta cần đối chiếu với sử liệu của Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Campuchia và sử liệu phương Tây cùng thời đại, như đem ghi chép trong các kỷ của Đại Nam thực lục chính biên đối chiếu, so sánh với châu bản triều Nguyễn. Với Thực lục tiền biên chúng ta cần đối chiếu với ghi chép hằng ngày của các công ty Đông Ấn, tin tức và báo cáo của các giáo sĩ truyền giáo, du ký của người châu Âu và các sử liệu có liên quan của Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, còn nếu chỉ dẫn dụng riêng ghi chép trong Thực lục làm căn cứ sẽ luôn …